Đôi nét về Gx. Hoà Hưng

Nguồn gốc giáo xứ Hoà Hưng

Vào những năm từ 1940-1943, có một số người từ miền bắc vào miền nam sinh sống, thì có một nhóm người đến định cư ở hẻm 19 đường Verdun (nay là hẻm 521 đường CMT8, Q.10). Con hẻm này nằm song song với đường Tô Hiến Thành, cách đường Tô Hiến Thành độ 150m (đường Tô Hiến Thành lúc đó là đường Milice).
Những người này hầu hết làm nghề xây dựng, họ là thợ hồ, thợ sắt, thợ cốt pha và lao động tổng quát, họ ở đây là gần nơi họ làm, vì khi ấy công trình khám Chí Hoà và công trình trường tiểu học Chí Hoà đang xây dựng.
Trong nhóm người này, có khoảng trên dưới 40 gia đình là người công giáo. Những người công giáo này, nằm ở giữa các nhà thờ: Chí Hoà, Huyện Sĩ và Tân Định, khi ấy chưa có nhà thờ Chúa Cứu Thế, chỉ có Dòng Chúa Cứu Thế mà thôi. Dòng Chúa Cứu Thế rất hạn chế giáo dân vào xem lễ, nhưng dậy giáo lý cho trẻ em giáo lý và xưng tội rước lễ lần đầu. vì vậy những giáo dân này phải đi lễ ở nhà thờ Chí Hoà, cũng khá xa vì toàn đi bộ, những người khá một chút thì đi xe “thổ mộ” (xe ngựa) trong nhóm người này chưa có ai được chiếc xe đạp.
Từ chỗ ở của những giáo dân này đến nhà thờ Chí Hoà khoảng 2 km, đây là giáp ranh giữa Đô Thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định, dân cư thưa thớt. Vào mùa mưa, sáng đi lễ phải qua nghĩa địa Đô Thành, nổi tiếng là nhiều ma (nay là công viên Lê Thị Riêng) và con đường từ đường Verdun vào nhà thờ Chí Hoà là đường đất lầy lội.
Trong một thời gian dài như vậy. Những giáo dân này bàn với nhau là xin cha làm cho nơi họ ở một cái nhà thờ nhỏ, và họ đã cử ông Ngôn làm đại diện đến nhà thờ Chí Hoà gặp cha Thiên để trình lên nguyện vọng của họ. may mắn là được cha Thiên đồng ý, bảo về ghi tên các gia đình có đạo đưa cho cha.
Hơn hai tháng sau, cha Thiên về Hoà Hưng tìm chỗ để cất nhà thờ. Sau nhiều lần đi lại cha đã chọn được chỗ là nơi nhà thờ Hoà Hưng hiện nay. Nơi này khi ấy là nhà của bà Ơn, hai gian nhà lá, có chái hai bên, xung quanh nhà đất rất rộng. Khi cha đến hỏi mua nhà để có chỗ làm nhà thờ thì bà bằng lòng ngay và rất mừng vì bà là gia đình có đạo. Sau đó cha mua thêm một cái nhà nữa, nhà của bà người Hoa bán “tạp khô” (muối, nước mắm, nước tương, hành, tỏi, bánh kẹo …)
Cha cho sửa cái nhà của bà Ơn lại, tạm làm nhà nguyện và một tháng cha mới về làm lễ một lần.
Khoảng 5 tháng sau, cha cho phá nhà này ra và dựng lên đây một nhà thờ nhỏ, song song nhà thờ cha làm 4 gian nhà lá, vây lại 1 gian để làm chỗ ở, 3 gian còn lại làm trường học và dậy giáo lý. Và 4 thầy dòng về ở, chừng 4 tháng sau các thày này đi, và các dì phước về và cha Truyền về. Cha làm nhà cha sở.
Đào móng, xây cột, vách 3 gian nhà, cột xây rất to, cột và vách đều cao 2,30 , gác đà lên đầu cột, bỏ rầm qua và đóng ván sàn, trên sàn ván này, dựng lên 1 cái nhà cột gỗ, vách ván, 3 gian ở dưới, 1 làm nhà để xe, 1 để 1 bàn bóng bàn, phía sau làm nhà kho, gian giữa làm nơi sinh hoạt và làm các thứ lặt vặt, mùa chay thì thắt lá …
Từ ngày cha Truyền về, nhà thờ ngày nào cũng có lễ, các giáo dân từ thành Pháo Thủ trở lại đều đi lễ nhà thờ Hoà Hưng (trại quân đội sau câu lạc bộ Lan Anh). Nhà thờ lúc này đã có nhiều giáo dân, cha Truyền về có đem theo một người con nuôi, tên là Rạng, khi ấy được 16 tuổi, chúng tôi gọi là ông Từ.
Anh Rạng, lo việc nhà cha, dọn dẹp cung thánh , giật chuông, thắp nến bàn thờ, dọn lễ mồ và các lặt vặt khác.
Dì Ta Rê, lo việc áo lễ cha, áo giúp lễ, khăn bàn thờ, trang trí cung thánh.
Dì Ba, đánh đàn, dậy đồng nhi hát.
Bà Đội Lễ, hướng dẫn kinh (chồng bà cấp bậc trung sĩ trong thành kèn đường Milice (THT) trung sĩ khi ấy gọi là ông đội)
Giúp lễ, anh Trí, Huệ (con bà Đội Lễ)
Các ông Biện:
Ông Biện Ngôn, ở hẻm 19 đường Verdun. Người đã đại diện các giáo dân đến gặp cha Thiên để xin cha làm một nhà thờ ở Hoà Hưng.
Ông trùm Nguyện, nhà ở bên hông nhà thờ, khi ở miền bắc ông đã làm ông trùm (ở họ đạo) vào miền nam, mọi người đều gọi là ông Trùm.
Ông Biện Vinh, ở hẻm vào chùa Bửu Đa hiện nay.
Ông Biện Kim (ông Huỳnh Kim Nên) ở đường khám lớn (đường Hoà Hưng hiện nay).
Ông Biện Ách, ở thành Pháo Thủ (trại quân đội sau câu lạc bộ Lan Anh), ông này cấp bậc thượng sĩ, lúc ấy gọi là ông Ách.
Ông Biện Giacôbê, ở hẻm gần rạp hát Thanh Vân.
Bà Ba Chích là trưởng Hội Các Bà Mẹ Công Giáo.
Ban động nhi hát cũng là đoàn Con Đức Mẹ.
Anh Tiền là trưởng đoàn con Thánh Giuse.
Cha kêu gọi giáo dân góp tiền mua cái nghĩa địa, khi chết được chôn ở đây không phải mất tiền mua chỗ nằm nữa.
Cha Thiên mua đất và xây nhà thờ Hoà Hưng.
Cha Truyền là cha sở đầu tiên của giáo xứ Hoà Hưng.
Lần đầu tiên nhà thờ Hoà Hưng được đón Đức Cha Hiền về làm phép thêm sức cho thiếu nhi. Hôm ấy, giáo dân đi lễ rất đông, quần áo rất đẹp, nhà thờ trang trí cờ và băng rôn chào mừng Đức Cha . bên kia đường Tô Hiến Thành, đối diện nhà thờ, khi ấy là bãi đất trống, giáo dân dựng lên đây một cây “niêu” rất cao để chào mừng Đức Cha.
Lần thứ hai nhà thờ Hoà Hưng được đón Đức Khâm Sứ Toà Thánh. Ba ngày trước khi Đức Khâm Sứ về. Cha Truyền viết một bức thơ đưa cho ông Trùm Nguyên bảo cầm đến chùa Khánh Hưng đưa cho ông Sư trưởng, mời ông ba ngày nữa, sáng sớm đến nhà thờ Hoà Hưng để cùng với cha đi đón Đức Khâm Sứ Toà Thánh. Ông sư trưởng đồng ý và hỏi là ngày ấy, ông có được mặc áo cà sa và che lọng không? Cha Truyền trả lời là “được”.
Ngày Đức Khâm Sứ về, ông sư trưởng và mấy người nữa đến nhà thờ Hoà Hưng từ sáng sớm và sau đó cùng với cha Truyền đi đón Đức Khâm Sứ. Mọi người đều ngạc nhiên và thích thú về việc làm của cha Truyền.
Bão năm Thìn (1952), trường học bằng lá của nhà thờ bị sập 2 gian, may là gian các Dì ở không sao.
Cha Truyền cho phá nhà thờ nhỏ ra và thay vào đó là một nhà thờ khác lớn hơn và đẹp hơn.
Trên đây là diễn tiến từ trước khi có nhà thờ Hoà Hưng đến năm 1953. Tiếc là tôi không nhớ được những mốc thời gian đáng nhớ, như ngày cha Thiên khởi công xây nhà thờ, ngày Đức Cha Hiền về nhà thờ Hoà Hưng, ngày Đức Khâm Sứ về nhà thờ, ngày cha Truyền cho làm lại nhà thờ Hoà Hưng. Mong được quý vị nào biết nhiều hơn, nhớ dai hơn vui lòng bổ xung cho.
Họ Hoà Hưng nguyên thủy là họ lẻ của Gx. Chí Hoà, được cha Giuse Phạm Văn Thiên (sau này là Giám mục Phú Cường) thành lập vào năm 1946 với khoảng 50 gia đình và 300 giáo dân cùng một nhà nguyện nhỏ thô sơ (thế hệ I) trên đường Milice Q.3, nay là 104 Tô Hiến Thành P.15 Q.10 TP.HCM.
- Năm 1949, nhà thờ được cha Giuse Thiên cất bằng vật liệu nhẹ (II), bên cạnh có trường Mẫu giáo.
- Năm 1951-1952 trở thành họ nhánh của họ Chợ Đũi.
- Ngày 24.08.1952 Hoà Hưng trở thành Giáo Xứ với Cha Sở đầu tiên là cha Phaolô Nguyễn Văn Truyền.
- Nhà thờ kiên cố được xây năm 1952-1953 do cha Phaolô Truyền (III), hệ thống khu xóm được hình thành, mở nghĩa trang ở đường Nguyễn Văn Thoại (nay là Lý Thường Kiệt).
- Tháng 7/1963 cha Bênađô Phạm Văn Quy được cử làm Chánh Xứ Hoà Hưng : quan tâm đến giáo dục (xây trường Trung Tiểu Học Thánh Tâm), học hỏi Lời Chúa, mua nghĩa trang ở Bình Hưng Hoà.
- Ngày 6/3/1984 cha Giuse Phạm Bá Lãm lên chức Chánh Xứ : ổn định Giáo Xứ, củng cố và phát triển các đoàn thể, mở rộng khuôn viên, xây dựng các công trình.
- Thánh đường rộng lớn được xây dựng 1990-1992 (IV), do cha Giuse Lãm, được ĐTGM Phaolô Nguyễn Văn Bình khánh thành và được ĐGM Emmanuel Lê Phong Thuận cung hiến ngày 13/5/1992.
- Hoà Hưng nhận Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa làm Bổn Mạng : mừng vào ngày 1/1, chầu lượt vào Chúa Nhật III Thường niên (trước Tết khoảng 2 tuần).
Với Gx. Chí Hoà, Hoà Hưng là con đầu lòng, nhưng với các Gx. khác, Hoà Hưng là mẹ của Gx. An Phú (1962), Gx. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (1963), Gx. Tống Viết Bường (1995)…HH. từ 300 giáo hữu “sơ khai” nay lên gần 9.000 giáo dân, không phải là toàn tòng mà là một Gx. đa phương, gồm giáo dân địa phương, giáo dân nhập cư thập niên 1940, nhập cư 1954 (chiếm đa số), nhập cư 1975 và giáo dân từ miền Trung vào. Tất cả đều sống hoà đồng với nhau : kinh đọc và tập tục đều theo địa phương (có cải tiến cho phù hợp).
Gx. Hoà Hưng nằm trên trục CMT8 và Tô Hiến Thành : phía đông giáp đường sắt Hoà Hưng, phía tây giáp đường Sư Vạn Hạnh, phía nam giáp đường 3/2, phía bắc giáp công viên Lê Thị Riêng. Gx. Hoà Hưng nằm trong Phường 12-13-15/Q.10 và Phường 10-11/Q.3, gồm có 11 khu nằm trong 4 khối (khối 1: các khu Tôma, Giacôbê, Anrê; khối 2 : Mátthêu và Gioan, khối 3 : Philipphê, Vinh Sơn, Micae, khối 4 : Phaolô, Phêrô, Simon) và 1 họ lẻ : Họ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (kế cận Câu Lạc Bộ Lan Anh).
Các linh mục chính xứ (3) : cha Phaolô Nguyễn Văn Truyền (1952-1963), cha Bênađô Phạm Văn Quy (1963-1984), cha Giuse Phạm Bá Lãm (1984 - đến nay).
Các linh mục phụ tá (10) : cha G.B. Trần Văn Cừ (1960-1961), cha Phêrô Nguyễn Văn Hai (1962-1967), cha Antôn Phan Lâm (1967-1972), cha Giuse Phạm Bá Lãm (1972-1984), cha G.B. Nguyễn Xuân Đức (1973-1983), cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền (1985-1987), cha G.B. Trần Văn Kim (phụ trách họ lẻ Tống Viết Bường 1985-1995), cha Gioan Maria Vianney Chu Minh Tân (1992-1999), cha Đa Minh Hà Duy Dũng (1999-2005), cha Giuse Huỳnh Thanh Phương (2005- đến nay).
Xuất thân từ Hoà Hưng có 25 Linh mục, 20 Tu sĩ nam nữ, độc đáo là có đến 4 cặp anh em làm Linh mục (cha Trần Văn Thụy và cha Trần Mạnh Hùng; cha Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Tâm; cha Trịnh Tuấn Hoàng và cha Trịnh Quốc Thái; cha Trần Quang Trí và cha Trần Quang Tuệ), phải kể thêm Đan Viện Phụ Ephrem Trịnh Văn Đức (Đan Viện Thánh Mẫu Châu Sơn, Đơn Dương). Năm thánh có thêm Tân LM. G.B. Lê Quốc Kiệt thụ phong 19/12/2009, thày Nguyễn Khánh Hà thuộc Dòng Đồng Công, chịu chức Phó tế 10/5… Ngoài ra còn khoảng 10 dự tu do cha Phụ tá hướng dẫn.
Các dòng tu tại Hoà Hưng : CĐ. Đức Mẹ Người Nghèo, CĐ. MTG Gò Vấp (3 trợ úy TNTT, 2 lo Phòng Áo, 10 thừa tác viên cho Rước Lễ), CĐ. MTG Phan Thiết, CĐ. Con Đức Mẹ Phù Hộ (3 chị điều hành Lưu Xá Sinh Viên), Tu Hội Ánh Sáng Phúc Âm, Chi Dòng Máu Châu Báu Chúa Kitô…
Gx. HH tổ chức theo hàng dọc có HĐMVGX/HH với 44 thành viên (có Ban Thường Vụ : Chủ Tịch, 2 Phó CT, Thư ký, Thủ Quỹ), 1 họ lẻ, 11 khu và các xóm. Mỗi khu có Ban Chấp hành với 3 thành viên (1 Trưởng, 1 Phó và 1 Thư ký kiêm Thủ quỹ). Theo hàng ngang có các đoàn thể và ban ngành.
Các Hội Đoàn gần như đầy đủ : Thiếu Nhi Thánh Thể (1.000 em với 90 huynh trưởng), Các Mẹ Công Giáo (190 hội viên), Gia Đình Phạt Tạ Thánh Tâm (150), Legio Mariae (100, có đến 7 Praesidia), Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh (75), Con Đức Mẹ (35), Thánh Sinh Công (16), Giới trẻ HH gồm các hạt nhân là các đoàn thể trẻ, vẫn duy trì được Lễ Giới Trẻ vào tối thứ bảy. Các Ca đoàn thật phong phú với 10 đơn vị (CĐ HH, CĐ khối 1-2, CĐ khối 3, CĐ khối 4, CĐ Thánh Tâm, CĐ CBM, CĐ Con ĐM, CĐ Legio, CĐ TNTT, CĐ Cộng Đồng. Độc đáo nhất vẫn là CĐ Cộng Đồng gồm quý ông bà lớn tuổi (nên được gọi là CĐ Yamaha) hát thường xuyên các lễ buổi sáng, các lễ an táng, các lễ tại gia…
Ban Thăm Viếng và Tổ ve chai hoạt động hiệu quả trong việc phục vụ bệnh nhân và người nghèo, nhất là dịp Giáng Sinh, Tết và lễ Hiện Xuống. Công tác bác ái được đẩy mạnh : Gx. và Các Bà Mẹ bảo trợ cho buôn làng Long Zol thuộc Gp. Kontum (cất nhà nguyện, tặng thiết bị máy móc, cứu trợ và tặng quà các dịp lễ…). HH có một kho chứa quần áo cũ do Các Bà Mẹ quản lý,
Xét về hoạt động thì Thiếu Nhi Thánh HH nổi bật nhất : đoàn ngũ hoá từ năm 1994, sinh hoạt sáng Chúa nhật và chiều thứ năm: thánh lễ, học Giáo lý, vui chơi tập thể…Những dịp lễ lớn được tổ chức với nhiều tiết mục hấp dẫn, lôi cuốn rất đông người đến dự. Đừng quên : tiền thân của TNTT/HH là Đoàn Hùng Tâm Dũng Chí HH. vang bóng một thời, đã sinh sản 4 Linh mục : cha Đinh Trung Nghĩa thuộc Dòng Tên, cha Nguyễn Văn Hiền, cha Nguyễn Văn Tâm, cha Trần Mạnh Hùng.
Xét về truyền thống thì Các Bà Mẹ có bề dày lịch sử. Năm 1958 sau khi đi Pháp về, cha Phaolô Truyền đã khai sinh Hội Các Bà Mẹ với Nội quy và giới thiệu đến các Gx. khác. Ngài là Tuyên Úy đầu tiên của Các Bà Mẹ Sàigòn, sau này mới trao lại cho cha Võ Văn Ánh. HH. xứng đáng là cái nôi của Các Bà Mẹ Sàigòn và là cánh chim đầu đàn của hạt Phú Thọ.
Từ một họ lẻ bé nhỏ, HH cố vươn mình lên thành một Gx. lớn để xứng đáng đứng đầu trong hạt Phú Thọ. Vì thế HH. phải nỗ lực phát triển cả chiều rộng lẫn chiều cao và cả chiều sâu nữa.
# Về chiều rộng : mua nhà đất dần dần với các đợt khác nhau, sở hữu 23 căn nhà với diện tích trên 1.000m2. Diện tích cũ nằm gọn trong Nhà thờ hiện nay và lối đi bên trái mà thôi. Nhờ khéo léo mua nhà liên tiếp, nên mới có đủ mặt bằng để xây Nhà Sinh Hoạt, Nhà Xứ và Lưu Xá Sinh Viên.
# Về chiều cao :
- Nhà thờ xây năm 1990-1992 : rộng 20m50 (hành lang 4m00 và 3m00), dài 35m00, cao 17m: dưới nhà chứa 750 người, trên lầu 450. Thỉnh thoảng được tôn tạo cho thêm đẹp. Cung thánh đủ chỗ để có thể dâng hoa, diễn nguyện, hoạt cảnh… Sạch sẽ, thoáng mát, âm thanh mạnh, có máy chiếu lên tường cung thánh những hình ảnh và bản văn. Có phòng hài cốt trên lầu 2 nhìn xuống cung thánh để giáo dân cầu nguyện hằng ngày.
- Nhà Sinh Hoạt xây năm 1996, diện tích mặt bằng 250m2 : trệt (có Hội quán), 4 lầu (2 Hội trường ở lầu 1 và 3) và sân thượng. Năm 2004 nâng cấp và thêm thang máy. Tính cách đa công năng như sau: sinh hoạt, hội họp, học giáo lý, văn nghệ và tiệc tùng…
- Lưu xá Sinh viên xây năm 2001-2002, 300m2 : hầm, trệt, 4 lầu, sân thượng. Đây là niềm hãnh diện cho Gx.HH : đón tiếp 166 nữ sinh viên từ các tỉnh, do 3 Nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ hướng dẫn. Không những tiện nghi mà tổ chức thật chu đáo, hằng ngày : dự lễ, kinh tối; hằng tuần : giờ giáo lý và nhân bản; hằng tháng : thuyết trình một đề tài; dịp lễ : sinh hoạt văn nghệ, công tác bác ái từ thiện. Đúng là cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng cầu nguyện.
- Nhà xứ nép mình bên Nhà Sinh Hoạt xây vào năm 2007-2008, diện tích 55m2 : hầm, trệt, 5 lầu. Ngoài phòng Cha Sở, Phòng khách, Phòng ăn, Phòng bếp, còn lại : các phòng cho các tu sinh, thêm phòng giáo lý cho Thiếu nhi (lầu 5).
# Về chiều sâu : Gx. HH kính trọng các linh hồn, nhất là các linh hồn có hài cốt gửi trên lầu 2 : hằng ngày cầu cho các linh hồn. Gx. HH đặc biệt tôn kính Đức Mẹ, cách riêng Đức Mẹ Fatima, hầu hết các công trình đều được khánh thành vào ngày 13/5 :
. Nhà thờ Hoà Hưng ngày 13/5/1992
. Nhà Sinh Hoạt - 13/5/1996
. Lưu xá Sinh viên - 13/5/2002
. Nhà Xứ - 13/5/2008
Nhà thờ mở cửa suốt ngày để giáo dân có thể viếng Chúa. Đặc biệt từ 12g00 đến 4g30 chiều luôn có các đoàn hay nhóm thay nhau làm việc đạo đức : đọc kinh trưa, giờ Lòng Thương Xót Chúa, giờ kinh của HĐGD/ĐaMinh… Buổi tối các đoàn thể, ca đoàn sinh hoạt cho đến 9g45 tối làm cho bầu khí Nhà thờ thêm đầm ấm.
Mỗi gia đình đều được biếu tặng một cuốn Tân Ước và sách Suy niệm Lời Chúa hằng ngày để đọc trong giờ kinh tối. Ngoài ra còn có Lịch Phụng Vụ của Hoà Hưng và tập Tài liệu học hỏi Năm Thánh (phần hỏi thưa) cũng được ra in ra và gửi đến từng gia đình.
Nêu cao tinh thần yêu thương tôn trọng giữa mục tử và giáo dân, giữa giáo dân với nhau. Không bè phái, không tranh giành chức quyền… Không có ai ứng cử vào các chức vụ của HĐMV/GX hay Khu xóm, tất cả đều được tập thể đề cử đứng ra hy sinh mà phục vụ. Gx.HH cũng quan tâm đến tính bình đẳng và không phân biệt đối xử. Td. dịp lễ Bổn Mạng Giáo xứ : mọi người tham dự cùng chia sẻ khẩu phần giống như nhau, đông vui mà không hao ! Dịp lễ tang : các nghi lễ đều giống nhau, những người có công với Gx. chỉ hơn một điều là được nhiều đoàn thể và nhiều người đến dự lễ hơn. Lòng đạo đức và hiếu thảo được nhấn mạnh trong dịp này : cơ hội cho các thành viên tang quyến dọn mình xưng tội, xin lỗi Chúa, xin lỗi ông bà cha mẹ để rước lễ sốt sắng, hiệp thông với người ra đi.
Gx. Hoà Hưng cố gắng tạo bầu khí thân thiện : yêu thương và phục vụ, tuy nhiên vẫn còn nhiều việc phải làm : người nghèo cần giúp đỡ, người lạc xa cần đưa về đoàn, đạo đức cần phải chấn hưng, cơ sở vật chất cần phải được bảo trì và tôn tạo, sống Hoà thuận mới Hưng thịnh.
Công trình chính nằm trong khuôn viên khá hẹp, gắn liền với nhiều khối nhà lớn, nhiều tầng phía đằng sau: văn phòng, nhà xứ, phòng học, lưu xá nữ sinh viên Hoà Hưng… Một sân nhỏ ở phía mặt tiền nối hai sân hình chữ nhật hai bên, bên trái là Đài Đức Mẹ.
Mặt chính nổi bật với những hình khối tam giác, các góc nhọn mạnh mẽ, những mảng tường đặc đan xen các lam bê-tông tạo nên một độ rỗng tương phản.
Phía dưới, các chân cột nhỏ, càng lên càng lớn dần tạo được sự linh hoạt cho đường nét kiến trúc. Mặt đứng có tổng thể hình dạng đầu hồi mái đưa ra phía trước, phần kết thúc mảng tường xiên theo độ dốc hai mái lớn phía sau: phần bên phải là tháp chuông rỗng gồm nhiều cột bê tông đứng đặt sát nhau, đi suốt từ chân tới đỉnh tháp, một vài đường nối ngang.
Mặt bên gồm hai tầng, dưới mỗi bên là dãy năm cửa lớn ra vào tạo nên một không gian hở. Tầng trên là dãy ban công chạy suốt, hàng cột chữ nhật ốp gạch đá màu mắm ruốc đi suốt từ nền lên đến sê-nô mái bên trên, băng ngang qua phần ban công, trên cùng là mái dốc ngói đổ về hai phía sê-nô thu nước. Công trình nhà thờ chính gần với dãy nhà sau bởi các hành lang. các ban công, cầu thang nối liền.
Mặt bằng chính thánh đường có hình chữ nhật lớn, kết hợp với tầng lửng bên trên chiếm gần 1/3 không gian nội thất. Nhịp cột đầu tiên là sảnh chính lớn, nối liền hai hành lang dọc hai bên. Năm nhịp kế tiếp là không gian dự lễ ở tầng trệt, mỗi bên năm cửa ra vào lớn, kết hợp với ba cửa vào phía trước tạo nên một không gian hở khi cộng đoàn sinh hoạt. Tầng lửng bên trên cũng là không gian dự lễ của cộng đoàn dân Chúa, nối liền với dãy ban công hai bên. Không gian nội thất được thể hiện bằng các đường thẳng góc, tường là những mảng chữ V sơn trắng trên nền kem. Trên cùng là hệ trần phẳng, hai bên nghiêng theo độ dốc mái, ở phần đỉnh trần, chính giữa là những mặt phẳng hình gấp khúc đi theo chiều dài thánh đường tạo nên sự linh hoạt, đa dạng cho không gian nội thất.
Phần sâu và cao là Cung thánh bên trái dành cho ca đoàn. Cung thánh nằm trong một hình chữ nhật lõm sâu vào bên trong, trần bên trên là mảng các ô vuông kính lấy sáng, ngay trung tâm là nơi đặt bàn thờ Chúa, trên là tượng Chúa, bên trái là tượng Đức Mẹ, bên phải là tượng Thánh Giuse. Phông nền của Cung thánh đều được sơn nước đơn sơ, thanh thoát, mảng giữa màu trắng, hai bên màu vàng kem, thuận tiện cho việc trưng hoa, tận dụng để chiếu chữ và hình (projection).
Giáo xứ Hoà Hưng tuy gốc miền Nam, nhưng là nơi đất lành chim đậu, với thời gian đón nhận anh em từ các miền, các giáo phận khác nhau. Tất cả sống hoà hợp với nhau giữa đại đa số những người ngoài Công giáo.
Bổn mạng của giáo xứ: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa mừng vào ngày 1/1 hằng năm.
Giáo xứ Hoà Hưng bao gồm Phường 12-13-15/Q.10 và Phường 10-11/Q.3, với số giáo dân trên 8.500.
Giáo xứ gồm có 11 Khu và 1 họ lẻ: Họ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (kế cận Câu Lạc Bộ Lan Anh), mừng Bổn Mạng vào ngày 15/8 hằng năm.
* Về ơn gọi: một số bạn thiện chí được cha Phụ tá hướng dẫn. Khá đông Linh mục, Tu sĩ xuất thân từ giáo xứ Hoà Hưng, có đến 5 cặp anh em làm Linh mục. Năm nay giáo xứ có thêm Tân Linh Mục G.B. Lê Quốc Kiệt, chịu chức ngày 19.12.2009 và đang phục vụ ở giáo xứ Gia Định.
* Về văn hoá: giáo xứ Hòa Hưng hãnh diện vì có một Lưu Xá Sinh Viên ngay cánh trái nhà thờ, với 166 nữ sinh viên, dưới sự chăm sóc chu đáo của 3 nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ.
Giáo xứ Hoà Hưng đất không rộng, thiếu tiện nghi, nên luôn luôn phải lo xây dựng và phát triển. Hầu như mỗi năm thực hiện một công trình xây dựng, mỗi năm phát triển sinh hoạt hội đoàn. Giáo dân Hoà Hưng không giầu nhưng có lòng yêu thương nhau trong việc cộng tác với các vị chủ chăn và các tu sĩ.

LƯỢC SỬ GIÁO XỨ HOÀ HƯNG

Giáo xứ Hòa Hưng tọa lạc tại 104 Tô Hiến Thành, phường 15, Q.10, TP.HCM.
Họ Hoà Hưng là họ nhánh của giáo xứ Chí Hoà, được Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên thành lập vào năm 1946 với khoảng 50 gia đình và 300 giáo dân, cùng một nhà nguyện nhỏ thô sơ mới xây.
Năm 1949, nhà thờ được Linh mục Phạm Văn Thiên xây mới bằng vật liệu nhẹ.
Năm 1951-1952 trở thành họ nhánh của họ Chợ Đũi.
Ngày 24.08.1952 chính thức trở thành giáo xứ Hoà Hưng.
Năm 1952-1953 Lm. Phaolô Nguyễn Văn Truyền xây nhà thờ được kiên cố.
Năm 1990 Lm. Giuse Phạm Bá Lãm bắt đầu xây thánh đường mới.
Ngày 13.05.1992 ĐTGM Phaolô Nguyễn Văn Bình và ĐGM Emmanuiel Lê Phong Thuận về khánh thành cung hiến.
Các linh mục từng phụ trách giáo xứ
* Linh mục chánh xứ
Năm 1952-1963 Lm. Phaolô Nguyễn Văn Truyền
Năm 1963-1984 Lm. Bênađô Phạm Văn Quy
Năm 1984 đến nay: Lm. Giuse Phạm Bá Lãm
* Linh mục phụ tá
Năm 1961-1963 Lm. G.B. Trần Văn Cừ
Năm 1962-1967 Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hai
Năm 1967-1972 Lm. Antôn Phan Lâm
Năm 1972-1984 Lm. Giuse Phạm Bá Lãm
Năm 1973 -1983 Lm. G.B. Nguyễn Xuân Đức
Năm 1985-1987 Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền
Năm 1992-1999 Lm. Gioan Vianney Chu Minh Tân
Năm 1999-2005 Lm. Đa Minh Hà Duy Dũng
Năm 2005-2010 Lm. Giuse Huỳnh Thanh Phương.
Năm 2010 đến nay Lm. Giuse Vũ Minh Thuỳ
Bổn mạng của giáo xứ: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa mừng vào ngày 1/1 hằng năm.
Giáo xứ Hoà Hưng bao gồm Phường 12-13-15/Q.10 và Phường 10-11/Q.3, với số giáo dân trên 8.500.
Giáo xứ gồm có 11 Khu và 1 họ lẻ: Họ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (kế cận Câu Lạc Bộ Lan Anh), mừng Bổn Mạng vào ngày 15/8 hằng năm.
* Các Hội đoàn sinh hoạt trong giáo xứ:
Thiếu Nhi Thánh Thể,
Các Mẹ Công Giáo,
Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh,
Con Đức Mẹ,
Legio Mariae,
Gia Đình Phạt Tạ Thánh Tâm,
Thanh Sinh Công,
các Ca đoàn…
Họ Hoà Hưng được Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên thành lập vào năm 1946 với khoảng 50 gia đình và 300 giáo dân, cùng một nhà nguyện nhỏ thô sơ mới xây. Hoà Hưng là họ nhánh của Họ Chí Hoà do cha Giuse Phạm Văn Thiên phụ trách.
Năm 1950, nhà thờ được Linh mục Phạm Văn Thiên xây mới bằng vật liệu nhẹ.
Năm 1952 trở thành họ nhánh của họ Chợ Đũi
Ngày 24-8-1953 trở thành họ đạo chính thức.
Thánh đường kiên cố đầu tiên được xây xong năm 1953 do Linh mục Phaolô Nguyễn Văn Truyền chủ trương.
Thánh đường mới xây từ năm 1990 đến năm 1992, do Linh mục Giuse Phạm Bá Lãm khánh thành và cung hiến ngày 13-6-1992.
Công trình chính nằm trong khuôn viên khá hẹp, gắn liền với nhiều khối nhà lớn, nhiều tầng phía đằng sau (văn phòng, nhà xứ, phòng học, lưu xá nữ sinh viên Hoà Hưng…) Một sân nhỏ ở phía mặt tiền nối hai sân hình chữ nhật hai bên, bên trái là vị trí đài Đức Mẹ.
Mặt đứng chính nổi bật với những hình khối tam giác, các góc nhọn mạnh mẽ, những mảng tường đặc đan xen các lam bê-tông tạo nên một độ rỗng tương phản. Phía dưới, các chân cột nhỏ, càng lên càng lớn dần tạo được sự linh hoạt cho đường nét kiến trúc. Mặt đứng có tổng thể hình dạng đầu hồi mái đưa ra phía trước, phần kết thúc mảng tường xiên theo độ dốc hai mái lớn phía sau: phần bên phải là tháp chuông rỗng gồm nhiều cột bê tông đứng đặt sát nhau, đi suốt từ chân tới đỉnh tháp, một vài đường nối ngang.
Mặt bên gồm hai tầng, dưới mỗi bên là dãy năm cửa lớn ra vào tạo nên một không gian hở. Tầng trên là dãy ban công chạy suốt, hàng cột chữ nhật ốp gạch đá màu mắm ruốc đi suốt từ nền lên đến seno mái bên trên, băng ngang qua phần ban công, trên cùng là mái dốc ngói đổ về hai phía seno thu nước. Công trình nhà thờ chính gần với dãy nhà sau bởi các hành lang. các ban công, cầu thang nối liền.
Mặt bằng chính thánh đường có hình chữ nhật lớn, kết hợp với tầng lửng bên trên chiếm gần 1/3 không gian nội thất. Nhịp cột đầu tiên là sảnh chính lớn, nối liền hai hành lang dọc hai bên. Năm nhịp kế tiếp là không gian dự lễ ở tầng trệt, mỗi bên năm cửa ra vào lớn, kết hợp với ba cửa vào phía trước tao nên một không gian hở khi công đoàn sinh hoạt. Tầng lửng bên trên cũng là không gian dự lễ của các tín đồ, nối liền với dãy ban công hai bên. Không gian nội thất được thể hiện bằng các đường thẳng góc, tường là những mảng chữ V sơn trắng trên nền kem. Trên cùng là hệ trần phẳng, hai bên nghiêng theo độ dốc mái, ở phần đỉnh trần (chính giữa nhà) là những mặt phẳng hình gấp khúc đi theo chiều dài thánh đường tạo nên sự linh hoạt, đa dạng cho không gian nội thất.
Phần sâu và cao là vị trí khu Cung thánh với góc trái dành cho ca đoàn. Cung thánh nằm trong một hình chữ nhật lõm sâu vào bên trong, trần bên trên là mảng các ô vuông kính lấy sáng, ngay vị trí trung tâm là nơi đặt bàn thờ Chúa, trên là tượng Chúa, bên trái là tượng Đức Mẹ, bên phải là tượng Thánh Giuse. Phông nền của Cung thánh đều được sơn nước đơn sơ, thanh thoát, mảng giữa màu trắng, hai bên màu vàng kem, thuận tiện cho việc trưng hoa, tận dụng để chiếu chữ và hình (projection).
Các linh mục từng phụ trách họ đạo: linh mục Phaolô Nguyễn Văn Truyền (1952-1963), Linh mục Bênađô Phạm Văn Quy (1963-1984)
Từ năm 1984 đến nay, nhà thờ Hoà Hưng do Linh mục Giuse Phạm Bá Lãm (cha sở), Giuse Huỳnh Thanh Phương phụ trách, với số giáo dân khoảng 8300 người. Bổn mạng nhà thờ là Mẹ Thiên Chúa và lễ Thánh Bổn mạng vào ngày 1 tháng 1 hằng năm.
Ngoài các giờ sinh hoạt họ đạo, nhà thờ có các lớp giáo lý: giáo lý thiếu nhi từ 5 tuổi đến 17 tuổi, giáo lý Dự tòng, Hôn nhân. Ngoài ra, Họ đạo cấp mười học bổng và trợ cấp cho ba mươi em học sinh nghèo theo định kỳ vào các dịp lễ lớn.
Nhà thờ Hoà Hưng có một Họ đạo nhánh là Họ nhánh Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và lễ Thánh Bổn mạng vào ngày 15 tháng 8 hằng năm, do Linh mục Giuse Phạm Bá Lãm phụ trách.

I. Đôi nét về Cha Giuse Phạm Bá Lãm

Cha Giuse Phạm Bá Lãm sinh ngày 18/8/1943 tại _____________ Ninh Bình, Phát Diệm, trong một gia đình có 6 người con (4 gái và 2 trai) lại sống trong một gia tộc có truyền thống linh mục:
- Cha Bác, Đức ông Nguyễn Gia Tường, linh hướng dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa ( Đà Lạt) (+________________)
- Cha Bác, Nguyễn Gia Đệ, linh hướng tu viện Thánh Mẫu Hòa Hưng (+__________________________)
Nên dù ông cố Giuse Phạm Xuân Thiều mất sớm (+1953), bà cố Maria Madalena Nguyễn Thị Mười (+2006) vẫn nuôi dưỡng và luôn hun đúc ơn gọi cho trưởng nam Phạm Bá Lãm: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của Thánh dành cho Chúa” (Lc 2, 27)
Ngài học tiểu chủng viện từ _______ đến _______ rồi Giáo hoàng học viện (Đà Lạt) từ _____ đến 1971
Năm 1967, ngài về giúp xứ Hòa Hưng gần 3 năm để rồi ngày 18/12/1971 ngài chịu chức linh mục tại DCCT ( Sài Gòn)
Ngày 23/6/1972 ngài về làm phụ tá 2 cạnh cha phụ tá 1 là Cha Anton Phan Lâm(1967 – 1972) và cha chánh xứ Benado Phạm Văn Quy (1963- 1984)
Biến cố 1975, cha Giuse cùng cha chánh xứ Benado và cha Gioan Baotixita lúc đó là cha phụ tá 2 đồng hành cùng anh chị em giáo dân giúp họ ổn định trong xã hội mới theo tinh thần phúc âm
Năm 1982 giáo xứ Hòa Hưng rơi vào cuộc khủng hoảng gây nên sự phân hóa trầm trọng với những mất mát to lớn, không gì bù đắp được
Năm 1983, cha Gioan Baotixita Nguyễn Xuân Đức rời Hòa Hưng tới một địa sở khác
Năm 1984, cha Benado Phạm Văn Quy xin từ nhiệm về an dưỡng tại viện Phát Diệm, Xóm Mới
Năm 1984 ngài được bổ nhiệm quyền chánh xứ
Năm 1986, ngày 25/5 ngài chính thức trở thành Linh Mục chánh xứ
Cha Giuse cố gắng bình thường hóa mọi sinh hoạt, nỗ lực hòa giải trong cộng đoàn, quyết tâm đưa Hòa Hưng vươn lên đúng tầm mức là một giáo xứ: HÒA BÌNH VÀ HƯNG THỊNH
Kết quả từ sự nỗ lực đó với hai thầy:
Phero Nguyễn Văn Hiền và Gioan Baotixita Trần Văn Kim tiến chức linh mục ngày 26/10/1995
Thầy giúp xứ Đỗ Mạnh Hùng tiến chức linh mục ngày 1/9/1990
Thầy Phanxico Savie Trần Mạnh Hùng tiến chức linh mục ngày 27/6/1992
II. Xây dựng các công trình về vật chất:
Xây dựng ngôi Thánh Đường Hòa Hưng thuộc thế hệ thứ IV
Với số giáo dân hơn 9000, nhà thờ cũ đã trở nên nhỏ hẹp, ngài quyết tâm xây dựng ngôi nhà mới thuộc thế hệ thứ IV
- Ngày 15/8/1990, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, bổn mạng cũ của giáo xứ, lễ đặt viên đá đầu tiên đã được tổ chức long trọng
- Ngày 13/5/1992, khánh thành và cung hiến nhà thờ
Như vậy với sự khôn khéo của cha chánh xứ cùng với sự đóng góp công sức, tiền bạc của giáo dân, nhà thờ hoàn thành trong 20 tháng với kích thước:
- Dài 34m, rộng 21m
- Hành lang 3 – 4m
- Nóc cao 18,5m
- Tháp chuông cao 27m
Ngày 14/7/1992 ngài được Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolo Nguyễn Văn Bình bổ nhiệm làm Quyền Hạt Trưởng Hạt Phú Thọ, và ngày 30/5/1993, chính thức làm Hạt Trưởng Phú Thọ
Sau khi xây nhà thờ, Cha Sở Giuse lại tiếp tục xây nhà sinh hoạt của giáo xứ, bề thế không thua kém nhà thờ là mấy, gồm 1 trệt và 3 lầu:
- Khởi công ngày 8/12/1995
- Khánh thành ngày 13/5/1996
Ít lâu sau ngài cho cơ nới nhà sinh hoạt thành 1 trệt, 4 lầu, 1 sân thương, đồng thời lắp đặt thang máy giúp cho những người cao tuổi đỡ vất vả khi đi cầu thang bộ
Một công trình khác cũng không kém bề thế như nhà thờ, nhà sinh hoạt, đó là lưu xá sinh viên được xây dựng năm ______ giúp các em sinh viên nữ có nơi ăn chốn ở an toàn. Lưu xá gồm 1 hầm để xe, 1 trệt và 3 lầu. và cha Giuse giao cho các nữ tu dòng Saledieng chăm sóc
III. Xây dựng đền thờ tâm hồn
Đoàn thể
Với những công trình to lớn như trên, Hòa Hưng có đủ điều kiện và phương tiện để phát triển.
Đền thờ tâm hồn còn quan trọng hơn. Do đó, ngoài đoàn thể Các Bà Mẹ Công Giáo, hoạt động liên tục; Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Kito Vua phát triển mạnh mẽ (do sự nhiệt tình của cha Gioan Maria Viannê Chu Minh Tân); các đoàn thể bắt đầu được Cha Sở khôi phục lai, sinh hoạt đều đặn như Đoàn Con Đức Mẹ, Legio Maria, Gia đình Phạt Tạ Thánh Tâm, dòng Badaminh, nay lại có thêm đoàn Thanh Sinh Công Damas…
Ngoài ra Cha Sở Giuse còn mạnh dạn giao việc dạy giáo lý Dự Tòng và Hôn Nhân cho giáo dân. Đó là hai thầy: thầy ….. Cường và thầy….. Đức.
Cha Sở Giuse củng cố các ca đoàn: ngoài ca đoàn Xứ (tiếp nối ca đoàn chính của giáo xứ đã có từ rất lâu), cộng đồng ca được thành lập năm 1975, Cha Giuse còn thành lập các ca đoàn khối thuộc các khu, ca đoàn của các đoàn thể (Con Đức Mẹ, Legio) , Ca đoàn của các tu sĩ dòng Mến Thánh Giá – Hòa Hưng ( Thánh Mẫu) (hát lễ vào sáng chủ nhật thứ hai hàng tháng). Để tạo tinh thần hiểu biết, thân thiện,Cha Sở Giuse thường tổ chức cho các ca đoàn và đoàn thể trẻ tham gia dã ngoại chung với nhau.
Cha Sở Giuse là ngườ sống có tình có nghĩa nên hàng năm Cha vẫn tổ chức các phái đoàn đi thăm các Cha đã từng phục vụ tại Hòa Hưng như Cha Tân, Cha Dũng, Cha Phương một năm hai lần vào dịp Tết và Bổn Mạng, đặc biệt đối với Cha già Cố Benado, một năm ba lần thăm viếng: dịp bổn mạng, mừng ngày thụ phong Linh Mục và Tết.
Cha Sở Giuse cũng là một trong số rất ít, các Cha trong giáo phận cử hành nghi thức tẩm liệm, Thánh lễ tại gia và nhất là cùng tiễn đưa người quá cố đến nghĩa trang hay hỏa đài qua nghi thức hỏa tang hoặc chôn cất.

1. Các Cha Phụ Tá:

Ngoài Cha Nguyễn Văn Hiền và Cha Trần Văn Kim, còn có các cha phụ tá:
- Cha Gioan Maria Vienne Chu Minh Tân
- Cha Daminh Hà Duy Dũng
- Cha Giuse Huỳnh Thanh Phương
- Cha Giuse Vũ Minh Thùy (hiện nay) là những vị linh mục trẻ tài năng thánh thiện cùng hợp tác chăm lo cho giáo dân Hòa Hưng
2. Còn phải kể đến các bác, các anh trong Hội Đồng Mục Vụ đầy tài năng, là những cánh tay đắc lực phụ Cha Sở trong việc chăm sóc tinh thần cho dân Chúa Hòa Hưng
V. Cha Sở Giuse và ơn gọi:
Các công trình vật chất mà Cha Sở Giuse đã xây dựng lên to lớn hoành tráng như ta thấy hiện nay cũng đủ nói lên tình thương của Ngài đối với dân Chúa Hòa Hưng, muốn cho giáo xứ có đủ điều kiện và phương tiện để giáo xứ mỗi ngày một “HÒA BÌNH” hơn, một “HƯNG THỊNH” hơn, vì như ngài đã chia sẻ: “ông bà cố tôi đã mất, chị em tôi lại ở xa, nên giáo xứ Hòa Hưng là gia đình thứ 2 của tôi, anh chị em giáo dân là cha, là mẹ, là anh chị em của tôi”
Tuy vậy, tình thương ngài dành cho Thiên Chúa và Giáo Hội còn lớn hơn nhiều, nên Ngài luôn cầu nguyện, cỗ vũ, khuyến khích các bạn trẻ dâng mình cho Chúa trong chức vụ Linh Mục và Tu Sĩ. Quả thế, “hoa quả” của ngài cho đến nay thật dồi dào. Ngài có các nghĩa tử là Linh Mục và 2 thầy chủng viện:
1. Cha Giuse Phạm Đình Lạc, thụ phong Linh Mục ngày ____ tại Hoa Kì, hiện nay đang phụ trách dòng Bửu Huyết Chúa Kito tại Việt nam (nhà mẹ ở Hoa Kỳ)
2. Cha Trần Mạnh Hùng, thụ phong Linh Mục ngày 27/6/1992, tại Sài Gòn, hiện là Cha Sở Phaolo X
3. Cha Phalo Nguyễn Quốc Hưng, thụ phong linh mục ngày 28/4/2003, hiện là Cha Sở An Nhơn, Gò Vấp.
4. Cha Gioan Baotixita Lê Quốc Kiệt, thụ phong linh mục ngày 19/12/2009
5. Thầy Giuse Nguyễn Văn Giàu dòng Chúa Cứu Thế, khấn trọn tháng 6/2011
6. Thầy ___ Nguyễn Văn Triệu, năm thứ 1 Đại Chủng Viện Thánh Giuse.
Thêm vào đó còn có các tu sĩ linh mục trong nước ngoài nước, là con cái Hòa Hưng được ngài khuyến khích, nâng đỡ cách này cách khác, như các Cha: Nguyễn Thế, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Văn Tâm và cha Trịnh Tuấn Hoàng (Hoa Kỳ), cha Bảo (Hoa Kỳ), các nữ tu Hồ Thị Hạnh, Nguyễn Thị Thu Hương, Bùi Thị Kim Ngọc.//
Năm 2011 này, chúng ta kỷ niệm 65 năm hình thành và phát triển giáo xứ Hòa Hưng và kỷ niệm 40 năm Linh mục của Cha sở Giuse Phạm Bá Lãm thì cha đã gắn bó với Hòa Hưng 44 năm (tính từ 1967 đến nay), trong chức vụ chính xứ 25 năm (tính từ 1986). Thật là một thời gian không quá dài, mà cũng chẳng phải là quá ngắn, nhưng là một thời gian đầy ấn tượng! Với những thành quả tinh thần, vật chất như trên, Ngài vẫn chưa cho là đủ, cha sở Giuse còn một ước muốn: “Tôi ước ao có 1 linh mục người miền Nam về làm chính xứ Hòa Hưng như thuở ban đầu vì Hòa Hưng là giáo xứ của người miền Nam”.
Là con dân Hòa Hưng, chúng ta cần phải tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một vị chủ chăn tài đức, thánh thiện, khôn ngoan, tuy thương không dễ nhưng cũng rất dễ thương

Linh mục Phaolo Nguyễn Văn Truyền (1952- 1963)
Linh mục Bênađô Phạm Văn Quy (1963- 1984)
Linh mục Giuse Phạm Bá Lãm (1984- đến nay)
*Linh mục Phụ tá
1. Gioan Baotixita Trần Văn Cừ (1961- 1963)
2. Phêrô Nguyễn Văn Hai (1962- 1967)
3. Antôn Phan Lâm (1967- 1972)
4. Giuse Phạm Bá Lãm (1972- 1984)
5. Gioan Baotixita Nguyễn Xuân Đức (1973- 1983)
6. Phêrô Nguyễn Văn Hiền (1985- 1987)
7. Gioan MariaViannê Chu Minh Tân (1992- 1999)
8. Đaminh Hà Duy Dũng (1999- 2005)
9. Giuse Huỳnh Thanh Phương (2005- 2010)
10. Giuse Vũ Minh Thùy (2010 đến nay)
Lược sử Giáo Xứ Hòa Hưng
Giáo Xứ Hòa Hưng không phải được hình thành trong một buổi mà là kinh qua 50 năm gian khổ với mồ hôi và nước mắt.
Nhà thờ Hòa Hưng không phải được xây dựng trong một ngày, mà là qua bao giai đoạn : 3 lần phá đi làm lại.
Họ Hòa Hưng cũng không phải chỉ có một Mẹ, mà là hai: Mẹ đẻ là Họ Chí Hòa, Mẹ kế là Họ Chợ Đũi. Nhờ hai bà mẹ này bồi đắp mà Hòa Hưng sớm tự lập.
Họ Hòa Hưng cũng không phải chịu mãi phận làm con, nhưng đã trưởng thành để làm Mẹ của các Họ đạo: An Phú, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Tống Viết Bường trong một thời gian. Hơn thế nữa, những năm gần đây Hòa Hưng cất tiếng nói như một đàn anh trong Giáo Hạt Phú Thọ.
Hòa Hưng tưởng rằng non trẻ, nhưng có biết đâu là được liệt kê trong danh sách 21 Họ đạo kỳ cựu của Sài Gòn năm xưa. Với bề dày truyền thống đó, Hòa Hưng đã chuyển biến không ngừng và nay đã đổi mới hoàn toàn về cơ sở, về tổ chức, về sinh hoạt …
Hòa Hưng không đơn thuần là tên gọi của một Giáo Xứ, mà là địa danh của một vùng đất rộng lớn nằm giữa hai Quận 3 và 10, là những Quận nội thành có tíêng của thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng có biết đâu, cách đây một nửa thế kỷ Hòa Hưng chỉ là một vùng ngoại ô của Sài Gòn, nổi danh với bến xe ngựa, ga xe lửa, khám Chí Hòa, các trại lính, các bãi rác, các vùng lầy, các nhà ổ chuột … Trong bối cảnh ấy, từ nơi đây mọc lên một cộng đoàn của niềm tin, của tình liên đới. Hòa Hưng luôn ấp ủ trong mình hai niềm khát vọng : Hòa Hợp và Hưng Thịnh.
Giáo Đoàn và Giáo Đường luôn luôn có tương quan hai chiều: Giáo Đoàn xây dựng Giáo Đường và Giáo Đường quy tụ Giáo Đoàn. Chúng ta có thể căn cứ vào sự chuyển biến và phát triển của Nhà thờ để ghi lại những nét sinh hoạt của Cộng đoàn Hòa Hưng: một Cộng Đoàn nhiều lần thay da đổi thịt với 4 thế hệ Nhà thờ cũng thay đổi hình dạng.

NHÀ THỜ HÒA HƯNG thuộc THẾ HỆ I: 1946 – 1950 (4 năm)

Nhà thờ Hòa Hưng là một Cộng Đoàn tự phát, nghĩa là được phát sinh không phải do sáng kiến của Hàng Giáo Sĩ, mà do ý chí của Hàng Giáo Dân, 50 gia đình Công giáo nơi một vùng lầy lội tối tăm: tối tăm về ánh sang văn minh, tối tăm về ánh sáng Tin Mừng, đã thao thức và ao ước lập nên một Họ đạo. Các ông: Bùi Văn Gia, Sự, Thúy, Chuyên… đã đến gặp Cha Sở Chí Hòa, lúc đó là Cha Giuse Phạm Văn Thiên, nay là Giám Mục Phú Cường, để xin lập Họ đạo và cất Nhà nguyện nơi đây. Cha Sở đã vui vẻ chấp thuận và một Cộng đoàn đã được khai sinh vào cuối năm 1946. Ngôi Nhà nguyện nhỏ bé với vật liệu thô sơ đã được mọc lên với sự trợ giúp của Đức Cha J.B. Cassaigne và Cha Sở Chí Hòa (hình 1). Đó là thời kỳ khởi thủy, các sinh hoạt còn đơn giản, có Thánh lễ, nhưng không cử hành các Bí tích khác. Tham gia hoạt động có các vị: ông Gia, Ngôn, Thúy, Vinh, Nên và Tư Lễ.

NHÀ THỜ HÒA HƯNG thuộc THẾ HỆ II: 1950 – 1953 (3năm)

Trong năm 1950, năm công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Nhà thờ Hòa Hưng thuộc thế hệ thứ II đã được xây dựng với vật liệu nhẹ, với kích thước: 17,50m + 7m = 122,50m2 (hình 2) (giấy phép ngày 22/2/1950). Đồng thời ngôi trường nhỏ được xây dựng lên: đến giúp có ba thầy Dòng Cái Nhum: thầy Louis, Alexis và Laurent; ngoài ra còn có dì Ba Ẩn và hai dì thuộc dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán. Cha Giuse Phạm Văn Thiên đã cử hành Bí Tích Rửa Tội đầu tiên ngày 24/5/1950. Hôn phối đầu tiên ngày 13/7/1950. Sau này có Cha F.X. Đặng Đức Vượng đến dâng lễ và cử hành Bí Tích trong một thời gian. Ngày 18/2/1951, Họ Chí Hòa đã nhường đất ở Tân Bình (đường Nguyễn Văn Thoại, nay là Lý Thường Kiệt) để lập nên nghĩa địa Hòa Hưng.
Từ ngày 24/6/1951 đến 17/8/1952, Họ Hòa Hưng đã được chuyển giao cho Họ Chợ Đũi coi sóc. Trong 14 tháng, các Cha Chánh, Nhơn và Ninh thay nhau đến cử hành Phụng Vụ.
Ngày 24/8/1952 Họ Hòa Hưng được nâng lên hang Giáo Xứ và Cha Phaolo Nguyễn Văn Truyền đã được bổ nhiệm về đây làm Linh Mục Chánh Xứ tiên khởi cửa Hòa Hưng. Đây là biên biểu quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành của Cộng Đoàn Hòa Hưng. Có vị chủ chăn sống giữa đoàn chiên, bộ mặt của Hòa Hưng đã thay đổi hẳn, chương trình phát triển dần dà được thực hiện.

NHÀ THỜ HÒA HƯNG thuộc THẾ HỆ III: 1953 – 1990 (37 năm)

Ngày 10/3/1953 Cha Phaolo Nguyễn Văn Truyền đã mua đứt phần đất hiện hữu rộng 1637m2 với giá 11.459đ. Ngày 16/9/1953 khởi công xây cất nhà thờ kiên cố với kích thước: dài 25,70m rộng 12,60m = 323,82m2. Với nơi thờ phượng xứng đáng, số giáo dân tăng dần, nhất là do giáo dân di cư nhập họ thêm, Nhà thờ phải nối thêm cánh bên Đức Mẹ và phần hậu bầu (phía sau bàn thờ), vào khoảng năm 1958 (hình 3)
Ngày 15/11/1955 Đức Giám Mục J.B. Cassaigne đã đến ban Bí Tích Thêm Sức lần đầu tiên tại Nhà thờ Hòa Hưng cho 86 người. Sau đó 2 năm, vào ngày 18/12/1955, Đức Cha Phaolo Nguyễn Văn Bình, mới được tấn phong làm Giám Mục Cần Thơ, đã đến thăm Hòa Hưng và ban thêm sức cho 115 người. Cha Phaolo Truyền đã kiện toàn hệ thống các Khu, đặt tên theo các Thánh Tông Đồ, nay thành 11 Khu, tổ chức Ban Quý Chức, phát động các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành như các Bà Mẹ Công Giáo, Con Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí, Gia Đình Phạt Tạ, Legio Marie, Bác Ái Vinh Sơn, Cựu Tu Sĩ, các Ban Hát,…
Hỗ trợ công tác có Linh Mục Phụ Tá đầu tiên của Hòa Hưng là Cha J.B. Trần Văn Cừ (15/5/1960 – 19/6/1961 – hiện nay là Chánh Xứ Tân Phú Hòa, Hạt Phú Thọ) rồi đến Cha Phero Nguyễn Văn Hai (8/6/1962 – 3/9/1967 – hiện nay là Chánh Xứ Mai Khôi, Hạt Chợ Quán)
Ngày 31/8/1963, Cha Benado Phạm Văn Quy đã được bổ nhiệm là Chánh Xứ Hòa Hưng (31/8/1963 – 6/3/1984 – hiện tại hưu dưỡng tại An Dưỡng Viện Phát Diệm ở Xóm Mới). Cha đã phát triển các sinh hoạt đạo đức và xã hội: kiện toàn các đoàn thể, lập thêm Hội Thánh Phero, Huynh Đệ Phan Sinh, phát động phong trào Học Hỏi Phúc Âm, khuyến khích công tác xã hội, huấn luyện nhân sự… đặc biệt chăm lo giáo dục con em: xây hai dãy nhà trường, xây lại Nhà Xứ, nâng nền và tráng xi măng sân… Ngày 23/1/1971 Giáo Xứ mua thêm nghĩa địa mới ở Bình Hưng Hòa, vẫn còn đang được chôn cất.
Hợp tác có các Linh Mục Phụ Tá lần lượt như sau: Cha Phero Nguyễn Văn Hai (8/6/1962 – 3/9/1967 – hiện ở Nhà thờ Mai Khôi, quận 5) Cha Anton Phan Lâm (10/9/1967 – 8/9/1972 – hiện đang ở Oakland, California, Hoa Kỳ) Cha Giuse Phạm Bá Lãm (23/6/1972 – hiện là đương kiêm Chánh Xứ Hòa Hưng) và cha Gioan B. Nguyễn Xuân Đức (17/6/1973 – 1/1/1983 – hiện ở nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Xóm Mới)
Trong biến cố lịch sử 1975, ba vị Chủ chăn của Hòa Hưng (các Cha Quy – Lãm – Đức) vẫn đứng vững bên đoàn chiên, giúp đỡ mọi người nhập cuộc vào xã hội mới trong tinh thần Phúc Âm. Các Cha không những tổ chức giảng dạy giáo lý, học hỏi Lời Chúa, chăm lo cho thiếu nhi và thanh niên, gầy dựng các ban hát… mà còn quan tâm giúp đỡ người nghèo, tạo công ăn việc làm cho đồng bào, tham gia việc sản xuất.
Năm 1982, giáo xứ Hòa Hưng gặp cơn khủng hoảng, gây nên tình trạng phân hóa với những mất mát không thể bù bắp được. Ngày 1/1/1983, Cha J.B Nguyễn Xuân Đức rời Hòa Hưng tới địa sở khác. Sau khi xây xong hai cánh gác đàng trong Nhà thờ, Cha Benado Phạm Văn Quy cũng xin được từ nhiệm và ngày 6/3/1984 đã về An Dưỡng Viện Phát Diệm ở Xóm Mới. Cùng lúc LM Giuse Phạm Bá Lãm được bổ nhiệm làm Linh Mục quyền Chánh Xứ 1984, rồi Linh Mục Chánh Xứ 1986 (nhậm chức ngày 25/5). Cha Giuse đã cố gắng bình thường hóa mọi sinh hoạt, nỗ lực hòa giải trong cộng đoàn, quyết tâm đưa Hòa Hưng vươn lên với đúng tầm mức của mình. Hoa quả đầu mùa từ cộng đoàn này: hai thầy Phero Nguyễn Văn Hiền và Cha J.B Trần Văn Kim đã được tiến chức Linh Mục vào ngày 26/10/1985. Hai Cha ở lại phục vụ một thời gian: Cha Hiền ở lại Hòa Hưng (1985 – 1987) Cha Kim ở Tống Viết Bường (1985 – 17/6/1995 – hiện nay là Chính Xứ Thánh Phaolo quận 10). Thầy giúp xứ Giuse Đỗ Mạnh Hùng tiến chức Linh Mục ngày 1/9/1990. Còn Thầy Phanxico X Trần Mạnh Hùng lên chức Linh Mục ngày 27/6/1992.

NHÀ THỜ HÒA HƯNG thuộc THẾ HỆ IV: 1990 đến nay

Hòa Hưng đất rộng với 4km2, dân đông với trên 9.000 người, vì đó Nhà thờ cũ trở nên chật hẹp, cần phải được mở rộng. Ngày 13/7/1990 Sở Xây Dựng đã cấp Giấy Phép Xây Dựng số 1143/GPXĐ0 cho Nhà Thờ Hòa Hưng theo đồ án kiến trúc của kiến trúc sư Nguyễn Duy Giáp trên diện tích mặt bằng khoảng 1000m2 (dài 34m rộng 21m, hành lang 3m+4m, nóc cao 18,50m, tháp chuông cao 27m). Với sự đóng góp công sức tiền bạc của giáo dân, Nhà thờ đã sớm hoàn thành trong 20 tháng. Nhật kí công trình ghi nhận:
ngày 15/8/1990 nhân lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là bổn mạng của Nhà thờ cũ. Lễ đặt viên đá đầu tiên đã được tổ chức trọng thể dưới sự chủ tọa của Đức Tổng Giám Mục Phaolo Nguyễn Văn Bình.
Ngày 27/8/1990 khai móng khởi công xây dựng
Ngày 8/12/1990 thượng kèo
Ngày 1/5/1991 lễ Tạ Ơn hoàn tất phần xây dựng cơ bản
Ngày 13/5/1992 khánh thành (do Đức Tổng Giám Mục Phaolo Nguyễn Văn Bình) và cung hiến Nhà thờ (do Đức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận, Giám Mục Cần Thơ) (hình 4).
Nhà thờ mới rộng thoáng với khoảng 1300 chỗ ngồi đã đáp ứng được số đông dự Lễ Trọng và Lễ Chúa Nhật. Với những điều kiện thuận lợi, các hoạt động giáo xứ thêm khởi sắc. Ngày 14/7/1992, Đức Tổng Giám Mục Phaolo Nguyễn Văn Bình đã bổ nhiệm Cha Giuse Lãm làm quyền Hạt Trưởng Phú Thọ (đặc trách thêm Nhà thờ Vinh Sơn và Thánh Phaolo) và ngày 30/5/1993 chính thức làm Hạt Trưởng Phú Thọ.
Cuối năm 1992, Cha Gioan Maria Vienne Chu Minh Tân được bổ nhiệm làm Linh Mục Phụ Tá tại Nhà thờ Hòa Hưng và nhận nhiệm sở vào ngày 6/12/1992. Với tất cả nhiệt tình, Cha Tân tổ chức thiếu nhi thành nề nếp, đã nâng cao tinh thần đạo đức của Giáo xứ.
Nhà thờ rộng lớn đã có rồi, nhưng còn thiếu nhiều phòng ốc đã nhóm họp. Sau khi đã mua thêm nhà đất, Cha Giuse Lãm đã xúc tiến việc xây nhà sinh hoạt của Giáo Xứ Hòa Hưng: dài 25m, rộng 9m, hành lang 1,50m, 1 trệt và 3 lầu, công trình này lớn không mấy kém Nhà thờ nhưng lại được thực hiện vỏn vẹn 5 tháng:
Khởi công ngày 8/12/1995
Khánh thành 13/5/1996
Cũng chính ngày khánh thành, tân ban Hội Đồng Giáo Xứ đã trình diện trước Đức Giám Mục Phụ Tá và cộng đoàn. Có cơ sở mới, có nhân sự mới, Giáo Xứ Hòa Hưng có đủ điều kiện để phát triển.
Một biến cố trọng đại mà mọi người đang chờ đón ngày đại lễ 18/12/1996 khai mạc năm toàn xá – mừng kỉ niệm 50 năm thành lập Họ Hòa Hưng và mừng kỉ niệm 25 năm thụ phong Linh Mục của Cha Sở Hòa Hưng.
Thánh đường kiên cố đầu tiên được xây xong năm 1953 do Linh mục Phaolô Nguyễn Văn Truyền chủ trương.
Thánh đường mới xây từ năm 1990 đến năm 1992, do Linh mục Giuse Phạm Bá Lãm khánh thành và cung hiến ngày 13-6-1992.
Công trình chính nằm trong khuôn viên khá hẹp, gắn liền với nhiều khối nhà lớn, nhiều tầng phía đằng sau (văn phòng, nhà xứ, phòng học, lưu xá nữ sinh viên Hoà Hưng…) Một sân nhỏ ở phía mặt tiền nối hai sân hình chữ nhật hai bên, bên trái là vị trí đài Đức Mẹ.
Mặt đứng chính nổi bật với những hình khối tam giác, các góc nhọn mạnh mẽ, những mảng tường đặc đan xen các lam bê-tông tạo nên một độ rỗng tương phản. Phía dưới, các chân cột nhỏ, càng lên càng lớn dần tạo được sự linh hoạt cho đường nét kiến trúc. Mặt đứng có tổng thể hình dạng đầu hồi mái đưa ra phía trước, phần kết thúc mảng tường xiên theo độ dốc hai mái lớn phía sau: phần bên phải là tháp chuông rỗng gồm nhiều cột bê tông đứng đặt sát nhau, đi suốt từ chân tới đỉnh tháp, một vài đường nối ngang.
Mặt bên gồm hai tầng, dưới mỗi bên là dãy năm cửa lớn ra vào tạo nên một không gian hở. Tầng trên là dãy ban công chạy suốt, hàng cột chữ nhật ốp gạch đá màu mắm ruốc đi suốt từ nền lên đến seno mái bên trên, băng ngang qua phần ban công, trên cùng là mái dốc ngói đổ về hai phía seno thu nước. Công trình nhà thờ chính gần với dãy nhà sau bởi các hành lang. các ban công, cầu thang nối liền.
Mặt bằng chính thánh đường có hình chữ nhật lớn, kết hợp với tầng lửng bên trên chiếm gần 1/3 không gian nội thất. Nhịp cột đầu tiên là sảnh chính lớn, nối liền hai hành lang dọc hai bên. Năm nhịp kế tiếp là không gian dự lễ ở tầng trệt, mỗi bên năm cửa ra vào lớn, kết hợp với ba cửa vào phía trước tao nên một không gian hở khi công đoàn sinh hoạt. Tầng lửng bên trên cũng là không gian dự lễ của các tín đồ, nối liền với dãy ban công hai bên. Không gian nội thất được thể hiện bằng các đường thẳng góc, tường là những mảng chữ V sơn trắng trên nền kem. Trên cùng là hệ trần phẳng, hai bên nghiêng theo độ dốc mái, ở phần đỉnh trần (chính giữa nhà) là những mặt phẳng hình gấp khúc đi theo chiều dài thánh đường tạo nên sự linh hoạt, đa dạng cho không gian nội thất.
Phần sâu và cao là vị trí khu Cung thánh với góc trái dành cho ca đoàn. Cung thánh nằm trong một hình chữ nhật lõm sâu vào bên trong, trần bên trên là mảng các ô vuông kính lấy sáng, ngay vị trí trung tâm là nơi đặt bàn thờ Chúa, trên là tượng Chúa, bên trái là tượng Đức Mẹ, bên phải là tượng Thánh Giuse. Phông nền của Cung thánh đều được sơn nước đơn sơ, thanh thoát, mảng giữa màu trắng, hai bên màu vàng kem, thuận tiện cho việc trưng hoa, tận dụng để chiếu chữ và hình (projection).

DANH SÁCH CÁC LM-TS XUẤT THÂN HOÀ HƯNG

1. Viện phụ Ephrem Trịnh Văn Đức OC, Đan viện Châu Sơn, Đơn Dương
2. Lm. Giuse Nguyễn Đức Hoà OP : Tu viện Albertô : 190 Lê Văn Sỹ P.10 Q. Phú Nhuận
3. Lm. Albertô Nguyễn Lộc Thọ OP : Tu viện Mai Khôi : 44 Tú Xương P.7 Q.3
4. Lm. Phêrô Nguyễn Thế OP : - -
5. Lm. Gioakim Đặng Quốc Phong, OP : - -
6. Lm. Vinc. Đinh Trung Nghĩa SJ : Tu viện Dòng Tên : 171 Lý Chính Thắng P.7 Q.3
7. Lm. F.X. Trịnh Tuấn Hoàng OFM : đang ở VN
8. Lm. Giuse Trần Văn Thuỵ : Nt. Bác Ái : 144 Nguyễn Thượng Hiền P.1 Q.Gò Vấp
9. Lm. F.X. Trần Mạnh Hùng : Nt. Thánh Phaolô : 352 Lê Hồng Phong P.1 Q.10
10. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền : TTMV : 6bis Tôn Đức Thắng Q1
11. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Tâm : Nt. Mẫu Tâm : 389 Hoàng Văn Thụ P.2 Q.Tân Bình
12. Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng : Nt. An Nhơn : 15/173 Lê Hoàng Phái P.17 Q.Gò Vấp
13. Lm. G.B. Lê Quốc Kiệt : Nt. Gia Định : 280 Bùi Hữu Nghĩa P.2 Q.Bình Thạnh
14. Lm. Gioan Nguyễn Vĩnh Lộc : Nt. Bùi Phát 453/105KC Lê Văn Sỹ P.12 Q.3
15. Lm. Giuse Hoàng Đình Hải : Nt. Bắc Hà : 419 Lý Thái Tổ P.9 Q.10
16. Ts. Nguyễn Văn Giàu CSsR, Tu viện DCCT : 38 Kỳ Đồng P.9 Q.3
17. Đcs. Võ Quốc Khánh Triệu : Chủng sinh dự bị ở TTMV : 6bis Tôn Đức Thắng Q,1
18. Nt. Têrêxa Nguyễn Thanh Hiền, Dòng Thánh Phaolô : 4 Tôn Đức Thắng Q.1
19. Nt. Hồng Hạnh, CĐ Thánh Phaolô : 49A Tú Xương P.7 Q.3
20. Nt. Nguyễn Thị Hiến, MTG/KhiếtTâm : ở nhà cha Hiền : 575/16B CMT8 P.15 Q.10
21. Nt. Têrêxa Trần Thị Xuân Hương, Dòng Đức Bà, con bà Hon khu Phaolô)
22. Nt. Anê Bùi Thị Kim Ngọc, Dòng Đức Bà (con ông Bùi Văn Trung, khu Vinh Sơn)
23. Nt. Nguyễn Thị Kiều Trang, MTG Thủ Thiêm (con chị Tô Kiều Trinh, khu Micae).
24. Nt. Phượng, Dòng Tiểu Muội (em ông Túc khu Philipphê).
25. Các Nt. thuộc các Cộng đoàn : MTG/Hoà Hưng, MTG Phan Thiết, Ánh sáng Phúc Âm, LXSV Hoà Hưng…

Những cha phục vụ Gx. Hoà Hưng :

1/ Lm. Bênađô Phạm Văn Quy, An Dưỡng Viện : 212 Lê Đức Thọ P.15 Q.Gò Vấp
2/ Lm. Gioan M.Viannê Chu Minh Tân : Tu hội Bác Ái Cao Thái : 39/7 đường 16, Vĩnh Thuận, Long Bình Q.9
3/ Lm. Đa Minh Hà Duy Dũng : Nt. Thánh Khang : 32 đường 25, KP 1, P.Linh Đông, Q.Thủ Đức
4/ Lm. Giuse Huỳnh Thanh Phương : Nt. Tân Phước : 245 Nguyễn Thị Nhỏ P.9 Q.Tân Bình
5/ Lm. Giuse Vũ Minh Thuỳ : Nt. Hoà Hưng 104 Tô Hiến Thành P.15 Q.10
6/ Lm. Giuse Phạm Đình Lạc : Nt. Hoà Hưng - - - - -

Lý lịch sơ lược của Cha Giuse Vũ Minh Thuỳ

Tân Lm. Phụ tá Gx. Hoà Hưng
Sinh ngày 11.02.1969 tại Suối Nghệ, Châu Đức, Bà Rịa Vũng Tàu,
Cha mẹ gốc Thái Bình, đang sinh sống ở Suối Nghệ
Ông bà ngoại ở Gx. Tân Thái Sơn (cha Thuỳ thường trú tại đây)
Là Nghĩa tử của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết, Chính xứ Tân Sa Châu
Thụ phong Linh mục ngày 29.06.2007 (Khoá 7)
Lm. Phụ tá tại Gx. Hà Đông Xóm Mới 2007-2010
Lm. Phụ tá tại Gx. Hoà Hưng : 01.08.2010

TIỂU SỬ Linh Mục G.B. TRẦN VĂN CỪ

(Linh Mục gương mẫu do các Lm. hạt Phú Thọ và một số Lm. khác bầu chọn)
Linh Mục Gioan Baotixita Trần Văn Cừ
Sinh ngày 01.02.1927 tại làng Công Xá, Tỉnh Hà Nam
Con Ông Augustinô Trần Văn Hận và Bà Maria Trần Thị Biết
Rửa tội ngày 03.02.1927 tại Nhà thờ Công Xá, Giáo Phận Hà Nội
Thêm sức năm 1935 tại Nhà thờ Công Xá
Vào Trường Tập, rồi Tiểu Chủng Viện Hoàng Nguyên ngày 01.09.1939
Có văn bằng CEPCI năm 1942
Vào Đại Chủng Viện Saint-Sulpice Hà Nội ngày 16.08.1950
Thụ phong Linh mục tại Nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn ngày 01.05.1958
Do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình
Là Linh mục gốc Gp. Hà Nội, gia nhập Gp. Saigon từ ngày 15.05.1958
Những nơi đã phục vụ :
Năm 1958 : 3 tháng rưỡi tại Lái Thiêu, 2 tháng tại Tam Hà Thủ Đức
Từ năm 1958-1959 : Phó xứ Phúc Hải, Biên Hoà
Từ năm 1959-1960 : Phó xứ Hoà Khánh Đức Hoà
Từ năm 1960-1961 : Phó xứ Hoà Hưng (Phó Xứ đầu tiên của HH: 14/5/1960-19/6/1961)
Từ năm 1961-1970 : Phó xứ Bắc Hà (1 năm 2 tháng)
Từ năm 1970-1974 : Nghỉ bệnh tại Nhà Hưu Hà Nội Ngã Sáu
Từ tháng 3/1974-1998 : Chính Xứ Tân Phú Hoà : 24 năm 2 tháng
Qua đời ngày 09.05.1998 tại Nhà thờ Tân Phú Hoà, hưởng thọ 71 tuổi với 40 năm Linh mục.
1. Những công trình văn hoá :
- Phụ trách báo Mẹ Hiền của Các Bà Mẹ ngay từ đầu, khi làm Phó xứ Bắc Hà (báo Mẹ Hiền nay đã tục bản).
- Những tác phẩm đạo đức : soạn Sách Giáo Lý cho trẻ em, nhất là biên soạn 13 tập Giờ Thánh.
- Những bài giảng đầy sức thuyết phục.
2. Những công trình xây dựng :
- Sửa sang khuôn viên Nhà thờ, vì là vùng thấp, hay bị lũ lụt.
- Đại tu Nhà thờ Tân Phú Hoà năm 1996 : nâng nền, tôn tạo cung thánh và xây Nhà xứ mới (đơn sơ).
3. Những công trình đạo dức :
- Phó Giám Đốc Liên Minh Thánh Tâm, Tuyên Uý Hội Các Bà Mẹ ở Bắc Hà
- Nhiệt tình tông đồ : dạy giáo lý, giải tội, thăm bệnh nhân và những người trễ nải, giúp đỡ người nghèo, thâu nhận và hướng dẫn các con cái thiêng liêng.
4. Những mối quan tâm :
- Chăm lo ơn gọi : khuyến khích các bạn trẻ dâng mình cho Chúa, sẵn sàng giúp đỡ những bạn thiếu thốn, dù không phải con cái của ngài.
- Chăm lo các cha già hưu : thăm nom, an ủi, giúp đỡ với quỹ riêng và gửi tiền lễ cho các ngài.
5. Những đức tính :
- Sống thanh khiết : luôn luôn giữ gìn từ lời nói đến tiếp xúc, nhất là khi nói chuyện với nữ giới.
- Tinh thần vâng phục : luôn vâng phục bề trên, phục vụ các nơi khác nhau: hai Gx. địa phương như Lái Thiêu, Hoà Hưng cũng như các Gx. khác, đang nghỉ bệnh cũng vâng lời đi nhận xứ Tân Phú Hoà.
- Tinh thần lạc quan : giữa những khó khăn nghịch, ngài vẫn bình tâm : chấp nhận và vui vẻ, bởi vì ‘Un saint triste est un triste saint’ : ông thánh sầu buồn là ông thánh đáng buồn, hoặc : ông thánh buồn là buồn ông thánh !
- Sống khó nghèo : sống rất bình dị, không có gì sang trọng cho mình, tự mình lo cho mình : không bà bếp, không người giúp việc, sống trong nhà xứ lụp xụp, trần thấp (vì đôn nền mấy lần) suốt 22 năm từ 1974-1996, không bao giờ phàn nàn về cảnh sống của mình, sống nghèo cho mình, nhưng chăm lo cho Nhà Chúa khang trang và đóng góp nhiều cho việc chung của Gíao phận.
6. Những đặc điểm :
- Hy sinh chịu đựng : ngài là một vị Lm. chịu đau khổ nhiều không phải vì anh em giáo dân, mà do chính quyền địa phương : Phường 19 Quận Tân Bình, nơi có Nhà thờ Tân Phú Hoà (nay là Phường Phú Trung Q,Tân Phú), là Phường gây khó khăn nhất cho hoạt động tôn giáo, vì nơi có nhiều dân nằm vùng, hay xăm xoi Cha Sở và Nhà thờ : không cho ai phụ giúp Ngài : Ngài phải kéo chuông, dọn bàn thờ, đọc sách thánh phải đăng ký người, không có người làm bếp : ăn cơm theo chế độ cà-mèn : người đưa cơm tới nhà xứ thỉnh thoảng bị Công An Khu Vực mở nắp ra coi xem những món gì. Sinh hoạt tôn giáo bị hạn chế, các đoàn thể bị theo dõi. Tình trạng khó khăn này kéo dài mãi đến thập niên 90 mới chấm dứt ! Hy sinh chịu đựng vì môi trường : Gx. Tân Phú Hoà nằm ngay bên cạnh Nghĩa địa Phú Thọ Hoà: bình thường đã ô nhiễm, khi giải toả lại trở thành những lò hoả thiêu lộ thiên càng thêm ô nhiễm, hơn nữa lại còn ô nhiễm vì nước thải độc hại do thuốc nhuộm và các phế liệu…
Ngài không kêu ca, mà còn dí dỏm gọi Tân Phú Hoà là “tàn phù hoa” !
- Có lòng chung : chăm lo việc Nhà Chúa và đóng góp chung. Gx. Tân Phú Hoà gồm đa phần dân lao động nghèo (về sau lại thêm di dân), thế mà ngài vận động giáo dân đóng góp vào hàng nhất của hạt Phú Thọ (theo tỷ lệ), điển hình như xây dựng Văn Phòng Toà TGM, Tân Phú Hoà đóng góp trên 15 triệu đồng (lúc đó giá trị cao), đứng thứ hai, chỉ thua Gx. Phát Diệm Phú Nhuận khoảng 1 triệu đồng thôi. Hàng tháng vẫn gửi tiền lễ tốt cho các cha già hưu, nhất là cho Nhà Hưu Hà Nội Ngã Sáu.
- Sống tế nhị : ra ngoài luôn vui vẻ với mọi người, luôn lắng nghe giáo dân, không ngắt lời (dù có mấy bà nói dai), giữ thể diện người khác, không la mắng ai, không dùng toà giảng để chỉ trích ai, không tiết lộ chuyện người này cho người khác. Vì ngài nhân đức, nên đã giúp cho nhiều cuộc hoà giải thành công, không có chuyện thắng thua.
- Thương người : sau 1975 âm thầm giúp đỡ cho các gia đình nghèo, người nghèo xin lễ : ngài thường cho lại, đặc biệt lễ cưới và lễ an táng : không nhận tiền lễ. Nhà thờ không có hòm khấn, không có giỏ tiền chuyền tay trong giờ lễ.
Ngài chỉ đặt 6 hộp tiền chung quanh tường Nhà thờ để giáo dân ý thức tự động bỏ tiền vào đó. Thế mà vẫn đủ chi dụng mà còn dư để giúp nơi khác.
- Nói chung : cha G.B. Trần Văn Cừ đạo đức, hiền lành và khiêm nhường, được mọi người mến thương: từ các đấng bề trên đến anh em Linh mục và giáo dân.
Có thể nói ngài là một trong những Linh mục gương mẫu của TGP. Saigon.
Đây chỉ là sơ lược về đời sống và gương sáng của cha G.B. Trần Văn Cừ. Còn nhiều chứng từ và nhiều chi tiết khác sẽ được thu thập để trình bày sau.